CHƯƠNG 1: VỤ "LIÊN CHUỖI OXFORD

Bao năm đã trôi qua và mọi chuyện rồi cũng bị lãng quên, giờ đây, vừa nhận một email vắn tắt từ Scotland báo tin buồn cái chết của Seldom, tôi cảm thấy đã đến lúc mình có thể phá vỡ sự im lặng, và thuật lại các sự việc về các sự kiện đã được lên báo chí Anh quốc mùa hè năm 93 với những nhan đề rùng rợn, nhưng Seldom và tôi thì luôn gọi là- có lẽ theo một diễn đạt văn học- vụ "liên chuỗi" hay "liên chuỗi Oxford". Đúng như tên gọi, mọi cái chết đều xảy ra ở Oxfordshire, vào lúc tôi mới bắt đầu vào ở nước Anh, và một cơ may- không biết có nên gọi như thế- của tôi là đã chứng kiến được vụ việc đầu tiên.

Khi đó tôi mới hai mươi hai tuổi, cái tuổi mà hầu như chuyện gì cũng có thể tha thứ. Tôi vừa tốt nghiệp đại học Buenos Aires với luận án về đại số, sang du học Oxford với học bổng một năm, ý định ngầm là chuyển sang nghiên cứu logic, hay ít nhất cũng đến dự thính các buổi thuyết giáo của Angus MacIntyre. Tiến sĩ Emily Bronson, phụ trách nghiên cứu của tôi, đã chuẩn bị cho ngày tôi đến nơi với sự lưu tâm tỉ mỉ. Bà là giáo sư và quản trị viên[1] tại trường St.Anne , nhưng trong các email trao đổi trước khi tôi lên đường, bà có gợi ý, thay vì trú lại những nơi thiếu tiện nghi trong trường, nếu học bổng cho phép, tốt hơn tôi nên thuê một căn phòng có buồng tắm, bếp và lối ra vào riêng tại nhà của bà Eagleton, một bà lão tỉ mỉ và tử tế, vợ góa của giáo sư bà trước kia. Tôi tính toán các chi phí, một cách quá lạc quan như thường lệ, rồi gửi đi chi phiếu ứng trước một tháng tiền phòng, theo yêu cầu của bà chủ nhà.

Nửa tháng sau tôi bay qua Đại Tây Dương trong tâm trạng thấp thỏm luôn đè nặng trong lòng mỗi khi đi đường: Lúc nào cũng vậy, có vẻ như, thay vì, một đất nước và cả một bộ máy bao la của cuộc sống sắp hiện ra bên dưới như một bàn tay vươn ra đón nhận tôi, có một giả thuyết nhiều khả năng xảy ra hơn, cũng như gọn ghẽ xác thực hơn- Lưỡi dao cạo của Ockham[2], Seldom hẳn sẽ nói thế- là một biến cố xảy ra vào phút chót sẽ gửi tôi về nơi xuất phát, hay xuống đáy đại dương. Thế nhưng cuối cùng, hoàn toàn đúng giờ như đã định, phi cơ êm ả cắt ngang qua những tầng mây, và những dãy đồi xanh của nước Anh hiện ra, thật ngay trước mắt không thể chối cãi, dưới một ánh sáng đột nhiên mờ đi, hay nói đúng hơn là tàn lụi, vì ấn tượng của tôi lúc bấy giờ ,máy bay đang xuống, là ánh sáng ngày một nhạt nhòa, như thể nó đang yếu và sẽ tắt dần sau khi qua một màn kính lọc.

Người phụ trách nguyên cứu của tôi đã chỉ tôi bắt xe bus từ phi trường Heathrow về thẳng Oxford, và xin lỗi nhiều lần vì đã không đón được tôi, vì bà phải dự một hội thảo về đại số suốt một tuần lễ ở Luân Đôn. Tôi không thấy phiền, mà trái lại nó là một cách sắp xếp hết sức tuyệt vời. Tôi có mấy ngày liền lang thang khắp thành phố và thu xếp mọi việc trước khi bắt đầu nghiên cứu ở trường. Hành lý của tôi không nhiều nhặn gì nên khi xe bus dừng tại trạm, tôi liền tự vác hành lý đi lại quảng trường bắt taxi. Đang đầu tháng tư, nhưng tôi vẫn mừng vì mình mặc một chiếc áo khoác; ngoài trời gió lạnh cắt da, ánh mặt trời nhợt nhạt không giúp ích được bao nhiêu. Thế mà tôi để ý đến mọi người ở quảng trường kể cả tài xế taxi người Pakistan đều mặc áo ngắn tay. Tôi đưa anh địa chỉ nhà bà Eagleton, và khi xe vừa chuyển bánh tôi hỏi anh không thấy lạnh sao. "Ồ, đang là mùa xuân mà", anh ta đáp, khoát tay về phía mặt trời yếu ớt như một bằng chứng không thể chối cãi.

Chiếc xe khoan thai lướt về phía đường chính. Đang khi nó rẽ trái, tôi nhìn dọc hai bên đường, qua những cánh cổng gỗ khép hờ và hàng rào sắt , những sân cỏ mịn màng không một vết bẩn. Chúng tôi đi ngang qua một nghĩa trang nhỏ phía sau nhà thờ, những ngôi mộ phủ đầy rêu phong. Xe chạy một đoạn ngắn trên đường Banbury trước khi rẽ vào ngõ Cunliffe, địa chỉ mà tôi đã đưa cho tài xế. Đường đi chỗ này chạy ngoằn ngoèo qua một công viên oai vệ; những ngôi nhà lớn màu trắng trang nhã một cách êm đềm hiện ra sau bờ giậu bằng cây thủy lạp, gợi nhớ các cuốn tiểu thuyết thời Victoria có buổi trà chiều, trận bóng vồ và những cuộc dạo chơi trong vườn. Chúng tôi dò những căn nhà dọc đường. Tận cùng con đường chúng tôi mới thấy những căn nhà nhỏ giống hệt nhau, khiêm tốn nhưng rất thích mắt, có một ban công gỗ hình chữ nhật và một dáng vẻ mùa hè. Căn nhà bà Eagleton là căn thứ nhất. Tôi lôi túi đồ xuống, trèo lên vài bậc cấp nhỏ và bấm chuông cửa.

Xét theo những ngày tháng viết luận án tiến sĩ và những công trình đầu tiên được công bố của bà, tôi đoán Emily Bronson cũng đã ngoài năm lăm tuổi, nên tôi thắc mắc người vợ góa phụ của giáo sư bà phải gà đến mức nào. Cửa mở ra, tôi thấy gương mặt xương xương cùng một đôi mắt màu xanh của cô gái cao, gầy, không khác tuổi tôi là mấy. Cô chìa tay ra mỉm cười. Chúng tôi nhìn nhau trong sự ngạc nhiên thú vị, nhưng rồi có vẻ cô thu mình lại một cách cẩn trọng, rút tay mà tôi đã cầm hơi quá lâu. Cô giới thiệu mình là Beth, cố nhắc lại tên tôi nhưng không hoàn toàn chuẩn xác lắm, trước khi dẫn tôi vào một phòng khách ấm cúng, trải thảm có hoa văn hình thoi màu xanh đỏ.

Bà Beth ngồi trên ghế dựa vẽ hoa, chìa tay và mỉm cười đón khách. Bà lão có một đôi mắt sáng lấp lánh và một cung cách rất sinh động, mái tóc bạc trắng búi cao gọn gàng. Khi tôi đi ngang qua căn phòng, tôi để ý thấy một chiếc xe lăn gấp lại để tựa vào ghế bà ngồi. Một tấm khăn kẻ ô lớn phủ quanh chân bà. Chúng tôi bắt tay và tôi cảm thấy bàn tay bà yếu ớt, hơi run rẩy. Bà nắm tay tôi một lát, dùng tay kia vỗ nhẹ và hỏi tôi về chuyến đi và hỏi đây có phải là lần đầu tiên tôi tới anh không.
"Mình đâu nghĩ sẽ có một người trẻ như vậy tới đây phải không Beth?" Bà hỏi, vẻ ngạc nhiên
Beth đứng bên cạnh, mỉm cười không nói gì. Cô lấy một chiếc chìa khóa từ móc treo trên tường và gợi ý nhẹ sau khi tôi đã trả lời thêm mấy câu hỏi.

"Bà nội, bà có nghĩ anh đã đến lúc chỉ anh ấy về phòng rồi không? Chắc anh ấy cũng mệt rồi. "

:Tất nhiên rồi"- Bà Eagleton đáp. "Beth sẽ hướng dẫn cho câu, tối nay nếu cậu không có dự định gì, mời cậu dùng cơm tối với chúng tôi"

Tôi theo Beth rời khỏi nhà và theo một cầu thang nhỏ xuống tầng hầm.Cô hơi cúi đầu và mở cánh cửa nhỏ và dẫn tôi vào một căn phòng rộng và ngăn nắp. Mặc dù nó thấp hơn mặt đất nhưng nó nhận được khá nhiều ánh sáng từ hai cửa sổ đặt ở rất cao. Beth vừa đi lại, vừa giải thích mọi thứ lặt vặt. Tôi nhìn qua giường và bồn tắm, nhưng chủ yếu là quan sát cô. Da cô khô, rám nắng và căng, như người ở ngoài trời nhiều và mặc dù điều đó làm cô có vẻ khỏe mạnh nhưng cũng đe dọa làm cho bề ngoài sớm già đi.

Đầu tiên tôi đoán cô khoảng dưới hai mươi lăm, nhưng giờ có một loại ánh sáng khác, tôi nhận ra cô không thể dưới hai mươi bảy hay hai mươi tầm tuổi. Đôi mắt cô gây bối rối đặc biệt: màu xanh thẫm rất đẹp, nhưng nhìn có vẻ tĩnh hơn các bộ phận khác, có vẻ ngần ngại không dám bày tỏ cảm giác của mình. Cô mặc chiếc đầm kiểu miền quê dài, rộng, cổ tròn, không phô bày điều gì trên thân thể ngoài chuyện cô quá gầy, tuy rằng nhìn kỹ, tôi mới thấy may mắn là không phải chỗ nào cũng gầy. Đặc biệt là từ sau lưng, trông cô cũng thuộc dạng ôm được lắm. Như hết thảy con gái dong dỏng cao, có một chút gì đó dễ thương tổn trên con người cô. Khi mắt chúng tôi nhau một lần nữa, cô hỏi - có lẽ là không có ý mỉa mai - tôi có còn muốn coi chỗ nào nữa không. Tôi nhìn lảng chỗ khác, ngượng ngùng, trả lời nhanh là mọi chuyện xem chừng rất ổn. Trước khi cô đi khỏi, tôi hỏi, loanh quanh khá lâu mới đến được ý chính, là mình có nên thực sự coi như đã được mời ăn tối không. Cô bật cười đáp rằng có chứ, và họ đợi tôi có mặt vào sáu giờ rưỡi.Tôi lôi chỗ đồ đạc ít ỏi ra, xếp vài quyển sách và luận án của mình lên bàn, rồi bỏ quần vào trong ngăn kéo. Sau đó, tôi đi bộ một vòng quanh phố xá. Ở đầu đường St Giles, tôi nhận ngay ra tòa nhà Viện Toán học, kiến trúc hiện đại xấu xí duy nhất ở đây. Tôi nhìn c|c bậc thềm và cánh cửa quay phía trước, rồi quyết định bỏ qua nó trong ngày đầu tiên. Tôi mua một bánh mì kẹp, và ăn một bữa trưa lẻ loi, hơi trễ ở ngoài trời, bên bờ sông, vừa ăn vừa theo dõi đội đua thuyền tập luyện. Sau đó tôi ghé qua vài tiệm sách, dừng chân chiêm ngưỡng những con gargoyle[3] trên bờ tường một hí viện, đi theo một nhóm du lịch có hướng dẫn vòng quanh sân một học viện,rồi đi bộ một lúc lâu trong Công viên Đại học. Giữa một khu đất có trồng cây xung quanh, một người đang lái máy xén những mảng cỏ lớn hình chữ nhật, và một người khác đang sơn những đường kẻ trên sân quần vợt. Tôi dừng lại ngắm họ, lòng tràn đầy hồi ức. Khi họ ngừng tay, tôi liền hỏi xem khi nào lưới mới được căng. Tôi bỏ quần vợt từ hồi năm thứ hai đại học, và cũng không mang theo vợt, nhưng tôi đã tự hứa phải mua một cái vợt mới tìm người cùng tập.Trên đường về, tôi vào một siêu thị mua sắm vài thứ cần dùng, và bỏ công lùng một tiệm rượu, rồi mua đại không chọn lựa gì lắm một chai vang cho bữa tối. Khi về tới ngõ Cunliffe, mới hơn sáu giờ mà trời đã tối và các nhà đều đã sáng đèn. Tôi lấy làm lạ là không nhà nào kéo rèm che, không biết có phải vì niềm tin (có lẽ hơi quá đáng) vào sự tế nhị của dân tộc Anh, những người không khi nào hạ mình đi dòm ngó chuyện người khác; hay có lẽ vì sự yên chí cũng mang tính Anh quốc không kém,là mình không làm gì sợ bị dòm ngó. Không thấy chỗ nào có cửa cuốn, và tôi còn cảm giác là đa số cửa ở đây không khóa. Tôi đi tắm, cạo râu, chọn chiếc áo đỡ nhàu nhất, và đúng sáu giờ rưỡi, bước lên những bậc cấp nhỏ để bấm chuông, tay mang chai rượu. Bữa ăn trôi qua trong không khí niềm nở lịch thiệp, tươi cười, khá nhạt nhẽo mà sau này tôi sẽ quen thuộc dần. Beth đã sửa sang bề ngoài lại một chút, mặc dù vẫn không trang điểm. Cô thay một chiếc áo dài lụa đen, và chải đầu cho tóc buông xuống một bên vai trông rất quyến rũ. Nhưng cái đó không phải vì có mặt tôi: tôi được biết cô chơi cello trong dàn nhạc giao hưởng của hí viện Sheldonian, tòa nhà hình bán nguyệt với những con gargoyle hồi nãy tôi nhìn thấy. Tối hôm ấy họ tập buổi cuối cùng trước khi diễn, và nửa tiếng nữa một anh chàng may mắn tên là Michael sẽ đến đón cô. Sau khi tôi hỏi có phải anh ta là bạn trai cô - trong đầu đã chắc là đúng không sai - quanh bàn bỗng có một sự im lặng lúng túng ngắn ngủi. Hai người phụ nữ đưa mắt nhìn nhau, nhưng thay vì trả lời, bà Eagleton chỉ hỏi tôi có muốn ăn thêm xa lát khoai tây nữa không. Cho đến hết bữa ăn, Beth có vẻ hơi trầm lặng, và đến cuối cùng thì chỉ còn tôi và bà Eagleton nói chuyện với nhau.

Chuông cửa reo, và sau khi Beth đã đi, bà chủ nhà bỗng linh hoạt hơn thấy rõ, hệt như một sợi dây căng thẳng đã buông lỏng ra. Bà rót cho mình ly rượu thứ hai, và một lúc khá lâu tôi ngồi nghe bà kể về cuộc đời thú vị, nhiều biến cố của mình. Trong chiến tranh, bà là một trong số vài phụ nữ đã tham gia một cuộc thi ô chữ toàn quốc, hoàn toàn không ngờ tới chuyện gì, để rồi được người ta cho biết giải thưởng của họ chính là được đón nhận và giữ lại ở một ngôi làng nhỏ biệt lập, với nhiệm vụ trợ giúp Alan Turing và nhóm toán học gia của ông giải đoán mật mã do máy Enigma của Đức Quốc xã phát ra. Bà gặp ông Eagleton cũng ở đó. Bà kể lại rất nhiều giai thoại về cuộc chiến, cũng như những bối cảnh quanh vụ đầu độc Turing nổi tiếng. Sau khi dọn tới Oxford, bà bỏ không chơi ô chữ nữa mà quay sang trò ghép chữ Scrabble, trò chơi mỗi khi thuận tiện bà đều chơi với một nhóm bạn. Hứng lên, bà lăn ghế sang một chiếc bàn thấp trong phòng khách nhỏ, bảo tôi đi theo bà và đừng bận tâm về việc dọn bàn, khi nào về tới Beth sẽ lo. Tôi ngại ngùng nhìn bà lấy trong ngăn kéo ra một bộ Scrabble rồi mở ra. Không thể từ chối được, tôi đành tiêu hết buổi tối đầu tiên của mình ở Oxford với trò chơi tạo các từ tiếng Anh, đối diện với một bà già gần như đã thuộc về lịch sử, người cứ sau hai hay ba lần đi lại dùng hết cả bảy chữ cái của mình, không ngớt cười như một cô bé gái